Blockcloud (BLOC) là một nền tảng blockchain thế hệ tiếp theo dựa trên cấu trúc TCP/IP, với mục tiêu là cải tiến công nghệ giao tiếp ngang hàng. Dự án đã tiến hành ICO vào năm ngoái và thu được 15 triệu đô. Mới đây, dự án đã được sàn giao dịch OKEx lựa chọn làm dự án đầu tiên để ra mắt nền tảng IEO của họ.
Trong bài viết này, KTS Group sẽ giới thiệu những thông tin cơ bản và những đánh giá về Blockcloud (BLOC).
Tác giả: Trung Nguyễn.
Blockcloud (BLOC) – Kết nối tức thì cho một mạng lưới bùng nổ.
Phần 1: Giới thiệu tổng quan về Blockcloud (BLOC)
Thông tin cơ bản về Blockcloud (BLOC):
- Tên Altcoin: Blockcloud
- Mã token: BLOC
- Blockchain riêng: có
- Website: https://www.block-cloud.io/index.shtml
- Tài liệu kỹ thuật: Whitepaper
- Tổng lượng token cung cấp: 10,000,000,000 BLOC
Các thành phần chính trong hệ thống Blockcloud (BLOC).
Hệ sinh thái Blockcloud có thể được chia ra làm 5 thành phần chính sau:
- Lớp vật lý + blockchain: được dự tính là kết hợp mạng lưới dịch vụ (SCN), được tính là lớp vật lý, cùng với blockchain mang lại tính di động và mở rộng.
- Giao tiếp: Lớp truy cập dịch vụ (SAL) cung cấp khả năng giao tiếp dựa trên nền tảng dịch vụ.
- Đồng thuận: bằng chứng dịch vụ (Proof-of-Service – PoS) để xác minh cho dịch vụ.
- Ghi chép giao dịch: hệ thống CoDAG để ghi lại giao dịch.
- Phân phối dịch vụ: Cơ chế đấu giá đôi tin cậy (TCDA) để phân phối dịch vụ công bằng.
Lớp vật lý + blockchain của Blockcloud (BLOC)
Một mạng lưới dịch vụ (SCN) cung cấp nội dung trực tiếp cho người dùng thay vì phải đi qua những máy chủ DNS và truyền dẫn IP như hiện nay. Giống như việc bạn có thể gọi điện trực tiếp cho người khác, thay vì phải trải qua một quá trình truyền dẫn trung gian. Ý tưởng này nhằm vượt lên hoặc cải tiến cấu trúc của internet hiện nay: giao tiếp giữa 2 đối tượng cụ thể. Khi đặt trọng tâm là tính di động, cách thực hiện hướng đến dịch vụ để đáp ứng một mạng lưới linh hoạt. Hạn chế của những SCN hiện nay là bảo mật và niềm tin. BLOC giải quyết vấn đề này bằng cách ứng dụng công nghệ blockchain.
Blockcloud áp dụng kiến trúc Serval cho mạng lưới dịch vụ của mình. Serval là một kiến trúc vốn được thiết kế để chạy các dịch vụ trực tuyến trên nhiều máy chủ ở những địa điểm khác nhau dành cho thiết bị di động. Serval mang đến một lớp truy cập dịch vụ (SAL) nằm trên một lớp mạng lưới không thể điều chỉnh, cho phép các dịch có thể kết nối trực tiếp thay thông qua địa chỉ IP và các cổng giao tiếp. Điểm khác biệt chủ yếu nằm ở việc thay vì nằm trên một lớp chuyển đổi, thì SAL của nó sẽ nằm giữa mạng lưới và lớp chuyển đổi.
SAL của Blockcloud hứa hẹn cân bằng được mức tải và tỷ lệ dự phòng nhanh hơn. Lớp mạng chuyển tiếp sẽ cho phép băng thông chảy qua 2 điểm đầu cuối. SAL của BLOC đưa ra các tin hiệu thông qua nhiều giao diện, để cuối cùng dẫn đến một giải pháp chuyển đổi tự động. Người dùng sẽ được trải tốc độ kết nối tức thì và những ứng dụng sẽ có sự chuyển đổi máy ảo.
Giải pháp của Blockcloud áp dụng blockchain để gắn dịch vụ vào nhà cung cấp. Những thay đổi ở các cặp tên (ví dụ như dịch vụ được cung cấp bởi một nhà phát hành cụ thể) được cập nhật và ghép ở trong blockchain, hoặc một chuỗi giao dịch. Khi thiết bị sử dụng dịch vụ từ chuỗi, danh tính được xác thực theo 2 cách: đầu tiên là kiểm tra hash dịch vụ trong hồ sơ, hoặc khoá công khai của người sở hữu dịch vụ trong chữ ký giao dịch.
Mạng phân phối ngang hàng của Blockcloud (BLOC).
Blockcloud sử dụng Coral để mang lại một mạng phân phối nội dung ngang hàng. CDN của Coral là tập hợp của những uỷ nhiệm web và tên máy chủ trên toàn thế giới. Nó sử dụng danh mục ngang hàng để định vị các đối tượng nếu chúng thật sự tồn tại trong hệ thống. Máy chủ ban đầu chỉ cần đưa ra đối tượng một lần duy nhất. Một trong những tính năng hay nhất của Coral đó là tránh được các điểm nóng nội dung, tập hợp các thông tin có thể bị mất nếu một bản vá hoặc tài liệu nào đó ngoại tuyến, thông qua một bảng hash phân phối (DSHT). Bảng này tạo ra những nút tự tổ chức và gỉam thiểu nhu cầu giao tiếp với các máy chủ ở xa.
Cơ chế đồng thuận của Blockcloud (BLOC).
Blockcloud thiết kế cơ chế đồng thuận bằng chứng dịch vụ để xác thực các dịch vụ IoT (Internet of Thing). Để đáp ứng nhu cầu của người dùng trên toàn cầu thì mạng luới cần thu thập và xác minh các nhà cung cấp có đủ khả năng cung cấp dung lượng, điện toán, băng thông và truyền dẫn. Cơ chế này không chỉ cần xác thực dịch vụ, mà còn tạo ra thu nhập cho các nhà cung cấp trong mạng lưới. Một vài dự án đã đưa ra các phần thưởng cho dung lượng như Filecoin và Siacoin. Golem, Hypernet và Perlin thì tâp trung giải quyết vấn đề của điện toán.
Đội phát triển nhấn mạnh việc có dung lượng và tài nguyên điện toán mang tính quyết định, để chứng minh cho dịch vụ của nhà cung cấp. Với băng thông và nguồn tài nguyên có sẵn, chúng được tính vào khả năng và được dùng để đánh giá chất lượng dịch vụ. Khi một nhà cung cấp đăng ký dịch vụ, thì họ sẽ cam kết về chất lượng dịch vụ. Người xác minh lúc này sẽ tiến hành kiểm tra dịch vụ để so sánh với những gì nhà cung cấp quảng cáo. Những kết quả kiểm tra này sẽ được lưu trong DHT để những người khác minh có thể đọc và bổ sung thêm.
Ghi chép giao dịch của Blockcloud (BLOC).
Blockcloud phát triển công nghệ CoDAG để đẩy nhanh tốc ghi chép giao giao dịch IoT. Do hiểu thiết bị động và IoT có nguồn cung năng lượng hạn chế, sức mạnh điện toán yếu, và băng thông giao tiếp hạn chế, Blockcloud mang đến một lưới gồm 3 thành phần: thợ đào, cổng kết nối và thiết bị.
Thợ đào được chia làm 2 bên: chậm và nhanh. Các thợ đào chậm sẽ dùng sổ cái dựa trên DAG và chịu trách phân tán các thợ đào nhanh. Các thợ đào sử dụng cơ chế Byzantine để ghi giao dịch vào blockchain.
Cổng kết nối là các nút ngoài chuỗi chạy theo giao thức. Những thiết bị này phải có đủ tài nguyên để tải về bản ghi sổ cái mới nhất, duy trì các kênh giao tiếp được mã hoá, và giao dịch với những cổng kết nối khác.
Các thiết bị chỉ cần nhận và gửi dữ liệu đến các cổng kết nối ở trên.
Tất cả các nút sẽ khởi đầu ở chế độ chậm do việc gia nhập mạng lưới không bị kiểm soát. Khi các nút bắt đầu đào các khối, họ sẽ được ứng cử vào chế độ nhanh. Càng nhiều giao dịch được đào, càng có nhiều nút tham gia vào chế độ nhanh. Nếu các bắt đầu có dấu hiệu lừa đảo trong mạng lưới thì chúng sẽ bị loại khỏi chế độ nhanh và tốc độ trung bình sẽ bị giảm xuống.
Công nghệ DAG của BLOC khác biệt so với những công nghệ DAG hiện nay. Thay vì cố định độ rộng của nút, Blockcloud đưa ra một độ rộng kết nối giữa các nút. Trong tình hướng xấu nhất, DAG của Blockcloud sẽ chuyển về hướng blockchain theo độ dài (giống như Bitcoin). Độ rộng của DAG sẽ tác động đến độ khó của bài toán. Độ rộng càng nhỏ, thì tính bảo mật hệ thống càng cao. Giống như các khối của NANO, các thợ đào BLOC tạo ra những khối mới bằng cách giải đố và xác thực 2 khối ở cấp trước đó. Khối mới được đóng dấu trên đầu của CoDAG. Để tránh phải chia tách, các nút với cấp kết nối cao nhất (hoặc có lịch sử chuỗi dài nhất) sẽ được ưu tiên để xác nhận các nút trong hệ thống. Lịch sử đảo ngược ngắn sẽ cô lập các nút này khỏi mạng chung.
Cơ chế đấu giá đôi của Blockcloud (BLOC).
Cơ chế đấu giá đôi liên tục tin cậy (TCDA) cung cấp giá cả công bằng và khớp với dịch vụ. Đây là một phần khá mạo hiểm khi mà một startup non trẻ như Blockcloud tham gia vào một lĩnh vực rất phức tạp.
Đội ngũ phát triển và cố vấn của Blockcloud (BLOC).
- Giám đốc điều hành Zhongxing Ming – là học giả tại đại học Princeton, tiến sĩ tại đại học Tsinghua, thành viên của hội đồng blockchain trực thuộc hiệp hội máy tính Trung Quốc, chuyên gia bậc cao tại Thâm Quyến.
- Chủ tịch Shu Yang – học giả tại đại học Case Western, tiến sĩ tại đại học Tsinghua, hiện là giám đốc điều hành của công ty công nghệ Oudmon ở Thâm Quyến.
- Giám đốc vận hành Dai Pan – bằng tiến sĩ đại học Bắc Kinh. Công tác công ty công nghệ Oudmon ở Thâm Quyến.
- Khoa học gia chiến lược Dong Huo – tiến sĩ đại học Tokyo, chuyên gia mạng lưới tại Liên Hiệp Quốc.
- Chuyên gia mã hoá, bảo mật hệ thống Qi Li – giáo sư khoa học máy tính, đại học Tsinghua, chuyên gia bảo mật hệ thống, biên tập viên của IEEE/TDSC, trên 60 bài được nghiên cứu được công bố.
- Giám đốc nền tảng đám mây Zhengzhou Wu – chuyên gia về Lisp, công tác tại công ty công nghệ Oudmon tại Thâm Quyến.
Ngoài ra, Blockcloud còn có các nhà cố vấn chủ chốt sau:
- Roger Lim – sáng lập viên quỹ toàn cầu NEO. Là cố vấn cho các dự án Bluzelle, Qlink, CoinFi, Thekey, Tomocoin, 0Coin, Switcheo, Open Platform, nOS. Sáng lập viên của Webvisions, doanh nghiệp dịch vụ đám mây tại châu Á.
- Alex Lihktenstein – sáng lập EVR. Được phỏng vấn và đề cập thường xuyên bởi các đơn vị truyền thông lớn như CNN, Fox và NY Post.
- Hoan Soo Lee – nhà kinh tế học nằm trong hội đồng cố vấn kinh tế cho tổng thống Obama; đối tác tại CMB International; đồng sáng lập và điều hành Give2gether tại Boston, Hoa Kỳ; cố vấn cho Dorinku tại London, Anh; cố vấn tín dụng cá nhân tại chi nhánh đại học Harvard tại Cambridge, Hoa Kỳ, bằng tiến sĩ tại khối kinh tế ở đại học Harvard.
Đối tác của Blockcloud (BLOC).
Blockcloud sở hữu một số lượng lớn các đối tác và nhà đầu tư nổi tiếng OKCoin, Genesis, KuCoin, Node Capital,…
Ngoài ra, sàn giao dịch OKEx cũng đã lựa chọn BLOC làm dự án mở bán IEO đầu tiên trên nền tảng OKEx Jumpstart.
Lộ trình phát triển của Blockcloud (BLOC).
Lộ trình phát triển được công bố có nhiều điểm khá chi tiết, nhưng chỉ trong ngắn hạn, cho đến Quý 2/2019. Đội phát triển báo đã hoàn thành việc thiết kế và hình mẫu cho nhiều tính năng trong hệ thống và dự kiến sẽ đưa ra testnet cho các hức năng đấu giá, kiến trúc CoDAG và cơ chế đồng thuận.
Ở giai đoạn quý 3 và 4/2018, đội phát triển đã kết nối được nhiều đối tác tăng cường nhận diện cho dự án, đi cùng với phát triển API mạng lưới và SDK cho di động, và giới thiệu các mô hình ứng dụng thương mại trong năm quý 1/2019 khi mà ứng dụng của các đối tác sẽ được tích hợp vào mạng lưới Blockcloud.
Phần cuối của bản lộ trình, nằm ở quý 2/2019, đó là việc ra mắt API mạng và SDK di động dành cho testnet.
Phần 2: Đánh giá về dự án Blockcloud (BLOC) của KTS Group.
Điểm mạnh và cơ hội của Blockcloud (BLOC).
Đội phát triển của BLOC có thành tích đáng nể và kinh nghiệm về các ứng dụng công nghệ cũng như mô hình kinh doanh. Trong số 12 thành viên, đã có 50 bài nghiên cứu được phát hành trên các báo học thuật lớn, được trích dẫn bởi các báo trên thế giới 300 lần, và họ đã nộp đơn xin cấp hơn 80 bằng sáng chế. Chưa kể đến đội phát triển còn có kinh nghiệm làm việc cho các công ty công nghệ lớn ở Trung Quốc như Huawei, Baidu, Alibaba và Tencent.
Oudmon, công ty về IoT được điều hành bởi họ đã có khoảng thời gian hoạt động 6 năm, phục vụ trên 8 triệu khách hàng, cung cấp cấp hơn 100 sản phẩm trải dàu từ thiết bị nhà thông minh cho đến các thành phần giao tiếp phương tiện. Lợi nhuận thường niên của Oudmon đạt mức 15 triệu đô.
Những thành tích không chỉ thể hiện về trình độ chuyên môn của nhóm phát triển trong lĩnh vực IoT, mà còn về tính hiệu quả của mô hình kinh doanh. Sự kết hợp giữa trình độ chuyên môn, khả năng học thuật và thành công kinh doanh như thế này là rất hiếm gặp.
Những mối quan hệ đến từ Oudmon trong lĩnh vực IoT đã thể hiện thông qua 30 thoả thuận hợp tác với những đối tác trong lĩnh vực IoT. Phần lớn sẽ đóng góp vào hệ thống với tư cách là nhà cung cấp dịch vụ và khách hàng trong hệ sinh thái của Blockcloud.
Điểm yếu và nguy cơ của Blockcloud (BLOC).
[sociallocker]
Lộ trình phát triển của Blockcloud đặt ra nhiều câu hỏi về thời điểm phát triển của lĩnh vực IoT và crypto. Hiện tại, đội phát triển vẫn đang phát triển sản phẩm chủ lực, và dự kiến ra mắt testnet vào giữa 2019.
Độ phức tạp trong kiến trúc và phát triển mô hình kỹ thuật sẽ cần một khoảng thời gian khá dài để hoàn thiện giải pháp bốn lớp.
Dù đội phát triển đã chứng minh được khả năng thông qua thành công tại Oudmon, nhưng về lĩnh vực blockchain thì họ chưa nhiều nổi bật. Do dự án vẫn đang trong giai đoạn đầu và cần một thời gian phát triển dài, nên việc tuyển mộ thêm các chuyên gia về blockchain là rất cần thiết.
Ngoài ra, Blockcloud còn phải đối mặt với các dự án đối thủ đã có quá trình phát triển khá dài trước đó:
- IOTA, giá trị 3.2 tỷ đô.
- Waltonchain, giá trị 189 triệu đô.
- IoeX, giá trị 48 triệu đô.
- Atonomi, giá trị 25 triệu đô.
- IoT Chain, giá trị 22 triệu đô.
- IoTex, giá trị 22 triệu đô.
- CPChain, giá trị 21 triệu đô.
- Intchain, giá trị 19 triệu đô.
[/sociallocker]
Trên đây là những thông tin tham khảo và ý kiến đánh giá của KTS Group. Không phải lời khuyên đầu tư. Chúc các bạn thành công với quyết định của mình!